Bệnh glaucoma
22/06/2020
Bệnh glaucoma (miền Nam gọi là cườm nước, miền
Bắc gọi là thiên đầu thống)
là nguyên nhân thứ hai gây mù lòa trên thế giới sau bệnh đục thể thủy tinh, tuy
nhiên, không giống như bệnh đục thể thủy tinh, tình trạng mất thị lực do bệnh
glaucoma phần lớn không thể phục hồi. Một đánh giá của năm 2014 về tỷ lệ mắc
bệnh glaucoma trên toàn thế giới ở những người có độ tuổi từ 40-80 cho thấy
khoảng 2.5% người mắc bệnh là ở các quốc gia Châu Á.
BỆNH
GLAUCOMA LÀ GÌ?
- Đây là một
bệnh lý về mắt mà nguyên nhân là do áp suất của thủy dịch trong mắt tăng
đến mức làm tổn thương thần kinh thị giác.
- Tình trạng
tăng áp suất xảy ra do lượng thủy dịch sinh ra quá mức hoặc đường dẫn lưu
thủy dịch ở trong mắt bị tắc nghẽn.
- Bệnh glaucoma
làm giảm thị lực vì khi áp lực trong mắt tăng có thể gây chèn ép các mạch
máu nuôi dưỡng cấu trúc thần kinh nhạy cảm ở phía sau mắt.
- Hầu hết các
trường hợp mắc bệnh đều tiến triển chậm và bệnh nhân thường không biết
tình trạng mất dần thị lực cho đến khi thị lực suy giảm đáng kể.
CÁC
LOẠI GLAUCOMA?
Glaucoma
góc-mở tiên phát
- Loại glaucoma
này chiếm phần lớn tỷ lệ glaucoma tại hầu hết các quốc gia, chủ yếu xảy ra
ở người cao tuổi nhưng cũng có thể xảy ra ở người trung niên. Các thành
viên trong gia đình của những người bị bệnh glaucoma sẽ có nguy cơ mắc
bệnh cao hơn vì bệnh này thường liên quan đến yếu tố di truyền.
- Bệnh glaucoma
tiến triển chậm và thường không thể nhận biết qua nhiều tháng hoặc nhiều
năm. Nhiều người không biết thị lực của mình đang kém đi vì thị lực trung
tâm và thị lực gần vẫn còn tốt, trong khi thị lực ban đêm và thị lực ngoại
biên đang giảm dần.
- Tình trạng này
thường đáp ứng tốt với điều trị nhưng trong một số trường hợp thì cần phẫu
thuật để dẫn lưu sự tắc nghẽn trong ống dẫn thủy dịch.
Glaucoma
góc-đóng cấp tính
- Đây là loại
glaucoma phổ biến nhất ở Việt Nam, thường xảy ra với người trung niên và
người cao tuổi, đặc biệt là phụ nữ do sự gia tăng đột ngột và nhanh chóng
của áp suất trong mắt. Nếu không được điều trị ngay, thì trong một thời
gian ngắn có thể dẫn đến tổn thương mắt vĩnh viễn.
- Không giống
như loại glaucoma mãn tính, tình trạng glaucoma cấp tính thường có các
triệu chứng rõ ràng như là đau mắt dữ dội, mờ mắt, đỏ mắt, xuất hiện quầng
sáng xung quanh nguồn sáng và buồn nôn.
Glaucoma
bẩm sinh
- Loại glaucoma
này hiếm gặp và xảy ra lúc mới sinh. Mắt của trẻ mở lớn, chảy nước mắt và
nhạy cảm bất thường với ánh sáng là các triệu chứng cho thấy cần đưa trẻ
đến thăm khám với bác sĩ nhãn khoa.
Glaucoma
thứ phát
- Glaucoma thứ
phát sẽ do các tình trạng khác gây ra như viêm mắt, khối u trong mắt, phẫu
thuật mắt, chấn thương mắt hoặc đục thể thủy tinh ở các giai đoạn nghiêm
trọng.
NHỮNG
AI CÓ NGUY CƠ MẮC BỆNH?
Mọi
người cần quan tâm đến bệnh glaucoma và các ảnh hưởng của nó. Điều quan trọng
với mỗi chúng ta là nên thực hiện việc kiểm tra mắt định kỳ từ khi sinh ra cho
đến khi trưởng thành, vì việc phát hiện và điều trị sớm bệnh glaucoma là cách
duy nhất để ngăn chặn tình trạng mất thị lực và mù lòa. Một vài yếu tố liên
quan đến bệnh này có khuynh hướng làm tăng nguy cơ mắc bệnh cho một số người:
- Trên 45 tuổi,
- Có tiền sử gia
đình mắc bệnh glaucoma,
- Tăng nhãn áp
bất thường,
- Có:
- Bệnh đái tháo
đường,
- Cận thị,
- Sử dụng
Steroid/Cortisone thường xuyên và kéo dài,
- Chấn thương
mắt trước đây.
CHẨN
ĐOÁN BỆNH GLAUCOMA NHƯ THẾ NÀO?
Bác
sỹ nhãn khoa có các dụng cụ chẩn đoán khác nhau để hỗ trợ trong việc xác định
bệnh nhân có bị bệnh glaucoma hay không ngay cả khi bệnh nhân chưa có bất kỳ
triệu chứng gì. Hãy tìm hiểu các dụng cụ này và chức năng của nó:
- Nhãn áp kế: đo
áp suất trong mắt bệnh nhân,
- Dụng cụ kiểm
tra thị trường: đánh giá thị lực của bệnh nhân, đây là dụng cụ quan trọng
để đo mức độ tổn thương thần kinh thị giác của bệnh nhân do bệnh glaucoma,
- Kiểm tra mắt
bằng đèn soi đáy mắt: bác sĩ nhãn khoa sử dụng một dụng cụ gọi là đèn soi
đáy mắt để quan sát trực tiếp -thần kinh thị giác qua đồng tử.
ĐIỀU
TRỊ BỆNH GLAUCOMA BẰNG CÁCH NÀO?
Nếu
tình trạng bệnh được chẩn đoán càng sớm thì cơ hội ngăn chặn việc mất thị giác
thành công càng cao. Mặc dù bệnh glaucoma không thể điều trị, nhưng phần lớn
các trường hợp bệnh có thể được kiểm soát thành công. Cách điều trị sẽ phụ thuộc
vào loại glaucoma, mà từ đó có thể chỉ định sử dụng thuốc (thuốc nhỏ hoặc thuốc
uống), tiến hành phẫu thuật hay điều trị bằng laser.
Điều
quan trọng cần lưu ý là tình trạng nhãn áp bình thường sau khi điều trị cho
thấy tình trạng bệnh đã được kiểm soát chứ không phải đã được điều trị. Vì vậy,
bệnh nhân cần được bác sĩ nhãn khoa theo dõi định kỳ để ngăn ngừa tình trạng
mất thị lực nặng hơn.